“Chiếc lược ngà” là một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Cảm nhận về đoạn trích là một dạng đề thường gặp trong chương trình Ngữ văn 9. Các em cùng tham khảo bài viết để nêu lên được cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà nhé.
I. Tìm hiểu khái quát về tác phẩm
1. Vị trí đoạn trích:
Đoạn trích “Chiếc lược ngà” trong chương trình Ngữ văn 9 thuộc phần giữa truyện ngắn “Chiếc lược ngà”.
2. Nội dung truyện:
Ông Sáu được về thăm nhà, thế nhưng trái với sự mong ngóng của ông, bé Thu lại không chịu nhận ba vì vết sẹo trên mặt ông. Suốt mấy ngày ông về phép, Thu lúc nào cũng xa lánh ba. Đến khi bé Thu hiểu ra nguyên nhân vết sẹo và nhận ba thì ông lại phải lên đường. Trước khi đi, bé Thu dặn ba làm cho mình một chiếc lược. Nhưng ông Sáu chưa kịp đưa lược cho con thì đã hy sinh nơi chiến trường.
3. Sơ đồ tư duy
II. Dàn ý:
1. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm hoặc trích dẫn một nhận định về tác giả, tác phẩm.
– Nêu cảm nhận của em về đoạn trích: Tình cha con thiêng liêng, bất diệt.
2. Thân bài:
– Cảm nhận về nhân vật ông Sáu: Yêu con, mong nhớ con, lúc nào cũng canh cánh lời hứa với con.
+ Lúc vừa trông thấy con: Không kịp chờ thuyền cập bến đã vội nhảy lên bờ để đến con, hụt hẫng khi con không nhận ra mình.
+ Trong thời gian ở nhà: Lúc nào cũng ở bên con, mong con gọi tiếng “ba”. Quan tâm gắp thức ăn cho con.
+ Khi về chiến khu: Hối hận vì lỡ tay đánh con, dồn hết tâm trí vào làm chiếc lược ngà tặng con.
– Cảm nhận về nhân vật bé Thu: Tính cách cứng cỏi, yêu ghét rõ ràng, vô cùng yêu ba.
+ Cá tính, nhất quyết không chịu gọi “ba” dù bị dồn vào thế khó.
+ Yêu ghét rạch ròi
+ Rất yêu ba, khi nhận ra ông Sáu đúng là ba mình thì bám chặt cổ ba, hôn lên mặt, hôn lên cả vết sẹo dài.
– Nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện bất ngờ nhưng vẫn tự nhiên.
– Nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật đặc sắc, đặc biệt là tâm lý nhân vật bé Thu.
3. Kết bài:
Khẳng định lại giá trị tác phẩm và tài năng nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
III. Bài văn: Cảm nhận của em về đoạn trích “Chiếc lược ngà”
Bài 1:
Chiến tranh đã qua lâu nhưng những mất mát, những nỗi đau mà chiến tranh mang lại vẫn như đang hiện hữu. Rất nhiều tác phẩm đau thương về chiến tranh đã được các nhà văn, nhà thơ chắp bút. Cũng viết về một thời đạn bom khốc liệt nhưng Nguyễn Quang Sáng đã “vượt qua bi kịch của chiến tranh” để “cất cao bài ca thiêng liêng về tình phụ tử”, viết nên truyện ngắn nổi tiếng “Chiếc lược ngà”. Truyện đã tái hiện được nỗi mất mát của chiến tranh, nhưng vượt lên trên nỗi đau ấy là tình cha sâu nặng, rực sáng dù đứng giữa hoàn cảnh éo le của cuộc chiến.
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến ngay khi đứa con gái của ông còn nhỏ. Suốt 8 năm trời ròng rã, ông lúc nào cũng nhớ thương, mong ngóng đến ngày được về gặp con. Cuối cùng sau bao tháng ngày trông đợi, ông cũng có dịp về thăm nhà, “cái tình người cha cứ nôn nao” trong ông. Ngay khi thuyền còn chưa cập bến, ông Sáu đã vội vàng nhảy lên bờ, bước những bước dài đến bên con. Ông gọi to tên con, khom người xuống rồi dang rộng vòng tay với niềm mong chờ sẽ được con chạy nhanh đến ôm chầm lấy ông, sà vào lòng ông kêu một tiếng “ba”. Phải trông mong, nhớ thương con đến nhường nào mới khiến một người lính dày dạn nơi chiến trường trở nên vội vàng, luống cuống như thế. Ông không kịp chờ thuyền dừng hẳn mà đã vội vàng nhảy lên bờ để đến bên con. Thế nhưng đáp lại những mong chờ suốt hàng năm trời của người cha, bé Thu lại sợ hãi, ngơ ngác như nhìn người lạ. Ông Sáu đã không kìm được nỗi xúc động, vết thẹo bên má giần giật, “giọng lặp bặp run run”. Ông lặp lại hai tiếng “ba đây con” “ba đây con” để mong con gái nhận ra mình nhưng con ông lại sợ hãi chạy đi. Không điều gì đau xót hơn thế! Nỗi niềm khát khao, mong nhớ của người cha như bị tạt một gáo nước lạnh. Nỗi đau của chiến tranh, của vết thẹo dài trên mặt cũng không là gì khi đứng trước sự hụt hẫng, đau khổ của một người cha không được con nhận ra.
Suốt mấy ngày ở nhà, ông Sáu chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng ở bên con, hằng mong ba con sẽ thân thiết hơn, mong con gọi một tiếng “ba”. Thế nhưng bé Thu lại ngày càng xa cách, phản ứng dữ dội mỗi lần phải nhắc đến từ “ba”. Trước sự cứng đầu của con gái, ông Sáu buồn và bất lực nhưng cũng chỉ biết lắc đầu cười chua xót. Và rồi đến khi con nhận ra mình thì cũng là lúc ông phải lên đường. Giây phút ông Sáu được nghe tiếng gọi “ba” mà ông mong ngóng bấy lâu thì cũng là lúc hai cha con phải xa nhau. Tình yêu và sự kìm nén bấy lâu đã khiến một người đàn ông phải “rút khăn lau nước mắt”.
Ông Sáu trở lại chiến trường, lúc nào cũng canh cánh với lời hứa tặng con một cây lược. Ông gửi gắm tình yêu và nỗi nhớ con vào chiếc lược nhỏ, “thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Nhưng chiến tranh tàn khốc khiến ông không kịp đưa chiếc lược trao tận tay con mình. Ông Sáu hy sinh trong một trận càn quét của địch. Những giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông không kịp căn dặn điều gì, duy chỉ có “tình cha con là không thể chết”, nỗi bận lòng cuối cùng của ông vẫn là người con gái bé bỏng, yêu thương.
Nếu như ở nhân vật ông Sáu ta thấy được tình yêu sâu nặng của người cha dành cho con gái thì bé Thu lại mang đến một tính cách hồn nhiên mà cứng cỏi, yêu ba tha thiết. Cô bé có tính cách yêu ghét rạch ròi, nhất định không chịu gọi “ba” vì đinh ninh ông Sáu không phải ba mình. Khi mẹ bảo gọi ba vào ăn cơm, bé Thu “né” ngay từ “ba” mà chỉ nói trống không “Vô ăn cơm”. Khi mẹ dặn nhờ ba chắt nước nồi cơm, bị dồn vào thế khó vì nồi cơm quá lớn, đứng trước sự lựa chọn là để cơm nhão hay gọi một tiếng “ba” để ba giúp, cô bé đã tự đưa ra một giải pháp khác – tự mình xoay xở, tự lấy muôi múc từng chút nước một. Bé Thu thông minh, nhanh nhẹn và rất cá tính.
Đỉnh điểm câu chuyện là lúc ông Sáu gắp cho con một cái trứng cá nhưng bé Thu không ăn lại hất ra và bị ba đánh. Trái với suy nghĩ của mọi người là cô bé sẽ khóc lóc, ăn vạ, nhưng bé Thu lại lặng im gắp cái trứng cá vào bát rồi bỏ sang nhà ngoại. Sự ương ngạnh của bé Thu đúng với tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không hề đáng trách. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, Thu còn quá nhỏ nên không thể hiểu hết được sự khốc liệt của chiến tranh mang lại.Thu không chịu gọi ông Sáu là ba vì vết thẹo trên mặt khiến ông trông khác với tấm hình chụp chung với mẹ. Trong tâm trí của Thu, ba phải là người giống hệt tấm ảnh mình vẫn hay thấy. Sự ngây thơ của con trẻ khiến người đọc vừa thấy cười, vừa thấy thương. Chiến tranh để lại muôn vàn nỗi đau, nhưng có lẽ nỗi đau tình thân bị chia cắt là đau đớn nhất.
Khi đã được bà ngoại giải thích, Thu trăn trở “thở dài như người lớn”. Có lẽ cô bé đang hối hận vì đã xa lánh, ngang bướng với ba. Tất cả nỗi nhớ mong, suy tư dồn nén như được giải tỏa vào sáng hôm sau, khi ông Sáu chuẩn bị lên đường. Bé Thu gọi to một tiếng “ba” – tiếng gọi mà cô bé ao ước được gọi từ lâu. Tiếng gọi như “xé cả ruột gan”, “làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Cô bé níu chặt lấy cổ ba, hôn cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài đáng sợ bên má của ba nữa. Qua tâm lý và hành động của bé Thu, tác giả đã khắc họa rõ nỗi đau chiến tranh, chiến tranh đã khiến bao gia đình chia cắt, vợ mất chồng, con không nhận ra cha… Một tiếng gọi “ba”, một cái ôm của ba và con tưởng chừng như đơn giản nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh lại trở nên khó khăn, xa vời.
Nguyễn Quang Sáng đã rất tài tình khi tạo dựng được tâm lý nhân vật rất đặc sắc. Bác Ba điềm tĩnh, quan tâm đến đồng đội. Ông Sáu yêu thương con vô hạn, mong từng giây từng phút để gặp con; đau khổ, bất lực khi con bướng bỉnh hay nhớ thương, gửi gắm tình yêu vào cây lược tặng con. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng được nhân vật bé Thu hồn nhiên mà cá tính, đôi khi bướng bỉnh nhưng yêu ghét rõ ràng. Cô bé rất yêu ba, rất nhớ ba nhưng vì sự ngây thơ của trẻ nhỏ cùng với tính cách cứng cỏi mà đã hiểu lầm ba.
Tác giả cũng khéo léo đặt nhân vật vào các tình huống truyện éo le để họ tự bộc lộ tính cách của mình. Phải thấy ông Sáu trong tình huống oái oăm con không nhận cha thì mới hiểu được tình yêu tha thiết, nỗi khát khao được ở bên con của ông. Đặt bé Thu vào tình huống gặp lại ba khi trên mặt ba thay đổi, có một vết thẹo dài cho đến khi bé hiểu ra nguyên nhân thì mới thấy được cô bé cũng yêu và tôn thờ ba đến nhường nào. Vì quá yêu ba nên mới không chấp nhận một người nào “trông khác với ba trong tấm hình chụp chung với mẹ”. Tình huống truyện kịch tính nhưng vẫn rất tự nhiên, có tính chất đảo ngược tình thế để tạo bất ngờ, tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện, đồng thời giúp làm nổi bật tình phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh éo le của cuộc chiến.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là tác phẩm bất hủ về tình cha con thiêng liêng giữa hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt. Câu chuyện về ông Sáu và bé Thu là minh chứng rõ ràng cho tình cha con thắm thiết, không điều gì có thể chia cắt. Qua câu chuyện, ta hiểu hơn về những mất mát đau thương mà chiến tranh mang lại để thêm tự hào và quý trọng cuộc sống hòa bình hôm nay.
Bài 2: Chiếc lược ngà: Tên gọi khác của lòng yêu thương
———————————
Câu chuyện về tình phụ tử thấm đẫm mùi vị nhân sinh
Bởi lẽ học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 có sự thay đổi rõ rệt, cảm hứng đạo đức thế sự dần thay thế cho cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng nên đề tài gia đình đã được đánh thức và trở lại một cách mạnh mẽ, không chỉ xuất hiện ở tiểu thuyết, truyện ngắn mà còn cả tản văn.
Nếu Thời xa vắng là một bi kịch với sự áp đặt và ép buộc của cha mẹ qua giọng văn Lê Lựu hay Ma Văn Kháng tái họa bức tranh cuộc sống thiếu thốn khó nhọc nhưng đầy ắp tình bà cháu trong Côi cút cảnh đời thì Chiếc lược ngà lại luyến tiếc về một thời quá vãng, không thể quay lại để bù đắp và chữa lành.
Câu chuyện về ông Sáu, người chiến sĩ vì chiến tranh mà đã xa nhà tám năm bây giờ mới có dịp về quê thăm con mình là bé Thu. Lúc ông lên đường thì đứa bé mới một tuổi, mỗi lần vợ đến quân doanh không thể dẫn theo con vì sợ nguy hiểm nên ông Sáu chỉ có thể nhìn Thu qua tấm ảnh cũ.
Bấy lâu nay đi lính, nỗi nhớ con cứ thế mà dâng lên, cuộn trào trong lồng ngực, lúc nào ông cũng mong ngóng được nhìn thấy bé Thu dù chỉ một lần vì thế khi đến nơi, xuồng còn chưa cập bến thì ông Sáu đã nhún chân nhảy bật lên khiến chiếc xuồng bị tạt ra xa, ông gọi con.
Trớ trêu thay, tưởng chừng bé Thu sẽ chạy đến mà ôm chầm lấy cha nhưng nó chỉ nhìn ông bằng ánh mắt xa lạ, thấy vết sẹo trên mặt cha thì hoảng hốt bỏ chạy, một tiếng hai tiếng gọi mẹ. Khi chứng kiến cảnh ấy, nỗi nhớ thương con bỗng chốc bị đả kích nặng nề.
“Với vẻ xúc động ấy và hai tay vẫn đưa về phía trước, anh chầm chậm bước tới, giọng lắp bắp run run:
– Ba đây con!
– Ba đây con!”
– Chiếc lược ngà
Về nhà thăm vợ con chỉ được vỏn vẹn ba ngày, trong khoảng thời gian ấy, bé Thu vẫn không chịu nhận ông Sáu là cha cũng không cho ông ngủ với mẹ. Cả ngày ông không đi đâu xa, chỉ ở nhà để cố gắng vỗ về con nhưng nó lại càng xa cách, chính điều đó đã khiến ông Sáu rất khổ tâm.
Suốt những năm tháng đi lính trở về, ông chỉ muốn nghe con gọi mình một tiếng cha, thế mà giờ đây bé Thu lại rất ương ngạnh, không chịu nghe lời.
Lúc gọi vào ăn cơm thì nói trống không, đồ ăn cha gắp cho nó cũng đem hất ra làm văng tung tóe, giận quá ông đưa tay đánh con làm nó hoảng sợ mà chạy qua nhà bà ngoại ở mấy hôm, mẹ sang gọi cũng không chịu về.
Đến ngày cuối cùng ông Sáu vẫn không dám ôm con, chỉ đứng từ xa nhìn nó, lúc chuẩn bị đi để trở về chiến đấu thì bỗng nhiên bé Thu chạy ra rồi gọi cha, một tiếng cha mà bấy lâu nay ông vẫn luôn mong đợi được thốt lên, nó đã xé tan cõi lòng của ông và cả những người xung quanh.
“Tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên:
– Ba… a… a… ba!”
– Chiếc lược ngà
Một tiếng gọi được cất lên trong nghẹn ngào xúc động, trong sự đè nén mà bấy lâu nay chỉ được nhìn cha qua bức ảnh cũ. Nó hôn lên tóc, mặt và cả vết sẹo dài bên má, hành động ấy đã thể hiện tình yêu mãnh liệt đang dâng trào của đứa con dành cho cha mình.
Khi tình cảm một lần nữa cuộn trào trong người nó thì cũng là lúc ông Sáu phải khăn gói ra đi, trở lại chiến trường. Ở căn cứ, ông vẫn nhớ lời hứa với con, làm cho Thu một chiếc lược ngà, ông tỉ mỉ làm từng cái răng lược rồi cẩn thận mà khắc xuống với từng nét chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
Hình ảnh bìa của cuốn sách Chiếc lược ngà
Trớ trêu thay, khi quà cho con còn chờ ngày trở về để trao tặng thì ông Sáu đã hy sinh trong một trận càn lớn của Mỹ – Ngụy, những giây phút cuối đời, ông không nói gì thêm chỉ nhìn chú Ba rồi gắng sức lấy ra chiếc lược ngà còn ủ trong túi.
Nguyễn Quang Sáng đặt nhan đề Chiếc lược ngà cho tác phẩm nhằm thể hiện được nội dung cốt lõi mà mình muốn nhắn gửi. Đó chính là kỷ vật mà cha dành tặng con gái, một minh chứng cho vẻ đẹp của tình phụ tử thiêng liêng, cao cả đồng thời chiếc lược ấy đã trở thành nguồn động lực trong đời để bé Thu có thể làm một cô giao liên đầy dũng cảm.
Những chi tiết đặc sắc trong Chiếc lược ngà đã cho chúng ta thấy được hành trình số phận con người vào những năm tháng bom rơi đạn nổ, Nguyễn Quang Sáng tài tình xây dựng tình huống khiến mạch truyện trở nên hấp dẫn và tinh tế, lời thoại mộc mạc dễ dàng chạm đến trái tim độc giả, gây bao thương nhớ mà lấy đi không ít nước mắt của chúng ta.
Nước mắt và nỗi đau từ chiến tranh
Đọc Chiếc lược ngà, độc giả có thể nhận thấy ông Sáu chính là nạn nhân của chiến tranh, vết sẹo dài trên mặt ấy như một minh chứng rõ rệt cho tội ác mà giặc Mỹ đã gây ra, chúng gieo rắc trên đất nước ta biết bao nhiêu nỗi đau về cả thể xác lẫn tinh thần.
Đó là những năm tháng đen tối không nhìn thấy Mặt Trời, người Việt Nam phải sống bí mật ngay trên chính mảnh đất vốn dĩ thuộc về mình, giống với Số phận con người của Solokhov, chiến tranh tàn khốc đã khiến cho một đứa trẻ có gia đình bỗng chất mất đi tất cả.
“Sống như thế và chết như thế, hỏi vậy làm sao mà chịu được? Chúng ta buộc phải cầm súng.”
– Chiếc lược ngà
Những giọt nước mắt đã rơi nơi cháy rừng lửa đạn không chỉ nói lên sự kiên cường mà còn là đạo đức, ý thức của con người, của cả dân tộc, nó nảy sinh khi tình cảm được trao đi và chính một phút yếu đuối ấy đã trở thành động lực để họ thêm mạnh mẽ, đoàn kết chiến đấu.
Thế hệ trước phải sống trong những tháng ngày cò không bay thẳng cánh, núi non như hóa thành sông và tiếng bom đạn muốn vỡ tung cả đất trời. Ngày hôm qua nhân dân ta còn vỡ òa khi mùa gặt đã đến, lũ trẻ thì mải mê rong chơi trên cánh đồng bất tận, ngày hôm nay thức dậy chỉ thấy đau thương, quê hương đất nước bỗng trở thành chiến trường.
“Làng nước đâu còn như xưa nữa. Người ta bị rời nhà, bị dồn vào các trại tập trung, rồi người ta lại phá ra, cả vườn tược cũng thay đổi.”
– Chiếc lược ngà
Tuổi nước độc của Dương Nghiễm Mậu là một minh chứng rõ rệt về sự khốc liệt do chiến tranh gây ra, tuổi trẻ mà thế hệ thời lửa đạn trải qua đã bị nhấn chìm trong buổi loạn lạc và nước mắt khóc cho số phận những người khốn khổ, họ bị hút hết nhựa sống, một cơ thể bình thường khỏe mạnh bỗng trở thành tàn phế.
Diễn ra một cách tàn khốc và triệt để, giống với Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, chiến tranh còn giết chết con người từ trong suy nghĩ, tư tưởng. Không chỉ là máu, những tâm hồn mỏi mệt trong tuyệt vọng, trong màn khói của thuốc súng ấy cũng một phần tái hiện nên bức tranh hiện thực về những ngày đen tối.
Giá trị nhân văn cao cả trong Chiếc lược ngà
Giống với Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh, tác phẩm là một hình tượng nghệ thuật chứa đựng tình cảm phụ tử sâu nặng và mãnh liệt, thông qua nhân vật chính, Nguyễn Quang Sáng đã tái hiện lại trước mắt chúng ta bức tranh cuộc sống con người trong chiến tranh.
Đối với bé Thu, chiếc lược ngà không chỉ là nỗi nhớ, kỷ vật đơn sơ của người cha đã mất mà còn thể hiện được nỗi ân hận trong quá khứ, từ đó trở thành một lời thúc giục tinh thần dũng cảm để tương lai có thể bước tiếp trên hành trình chiến đấu còn dang dở.
Chiếc lược ngà trở thành thứ quan trọng để ông Sáu có thể bù đắp cho con vì những tháng năm qua, nó là sợi dây gắn kết tình thương, là biểu hiện của sự nhung nhớ đồng thời là món quà chân tình duy nhất mà người đàn ông đã hy sinh ấy để lại.
Vết sẹo là hình tượng nghệ thuật độc đáo, tuy rằng truyện rất ít khi được nhắc đến nhưng nó vừa là nút thắt đẩy mâu thuẫn lên cao trào đồng thời làm sáng tỏ những khúc mắc trong Chiếc lược ngà, ở những trang cuối cùng, Nguyễn Quang Sáng đã viết rằng:
“Đây chính là lời trăn trối cuối cùng và cũng chính là tình yêu anh để lại trên thế gian, tình yêu ấy là bất diệt.”
– Chiếc lược ngà
Chúng ta thấy được ngòi bút của Nguyễn Quang Sáng có sự trưởng thành trong từng chi tiết đến mỗi phân đoạn, Chiếc lược ngà không có sự suy tưởng phức tạp, chi tiết và lời văn mộc mạc dễ đi vào lòng người, chính điều đó đã khiến cho tác phẩm trở nên đặc biệt, chân thực mà gây bao xúc động.
Bài 3:***Tình cha con sâu nặng, cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)***
Nguyễn Quang Sáng quê ở huyện Chợ Mới tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là bộ đội hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau 1954 tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về miền Nam tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình. Truyện ngắn Chiếc lược ngà được viết năm 1966, được in trong tập truyện cùng tên. Bằng việc tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên hợp lí, đoạn trích trong truyện Chiếc lược ngà thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.
Đề tài về tình cảm gia đình luôn là mạch nguồn cảm xúc của văn chương. Ca dao Việt Nam ngập tràn bóng dáng người mẹ, người cha và tạo thành dòng chảy đi vào thơ văn hiện đại với Lời ru của mẹ (Xuân Quỳnh), Mẹ ốm (Trần Đăng Khoa), Bầm ơi! (Tố Hữu), Những cánh buồm (Hoàng Trung Thông),… Cũng từ đó, tình cảm gia đình thiêng liêng được bồi đắp trong trái tim mỗi người, là sức mạnh, là niềm tin trong cuộc sống. Đồng thời, tình cảm gia đình là cái nôi sinh ra những tình cảm cao đẹp khác. Và tình cảm thiêng liêng ấy được đặt trong bối cảnh chiến tranh lại càng nổi bật, đậm đà. Chiếc lược ngà là một trong số đó.
Truyện kể về ông Sáu, một nông dân Nam Bộ, yêu nước, xa nhà đi kháng chiến khi Thu – đứa con gái bé bỏng chưa đầy một tuổi. Mãi khi Thu tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt ông làm ông không còn giống với người trong bức ảnh mà em biết. Em cư xử với ba như người xa lạ. Đến lúc nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, Ông Sáu dồn hết tình cảm yêu quí, thương nhớ con vào việc làm cây lược bằng ngà voi để tặng đứa con gái bé bỏng. Thế nhưng, trong một trận đánh, ông đã hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn để gửi về cho đứa con ông yêu quý.
Truyện viết trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, ở đây chính là tình cha con sâu sắc, được thể hiện trong hai tình huống: tình huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách, nhưng trớ trêu thay con lại không nhận ra cha. Đây là tình huống cơ bản của truyện. Tình huống thứ hai là sự việc ông Sáu dồn tất cả tình yêu để làm tặng con gái chiếc lược ngà nhưng ông lại ra đi khi chưa kịp trao tận tay con gái món quà đó. Đó là toàn bộ mạch truyện mà mỗi mạch truyện biểu lộ tình cảm mãnh liệt của mỗi nhân vật. Tình cảm ấy đã vẽ nên một bức tranh buồn nhưng đẹp và thiêng liêng về tình cảm gia đình nói chung, tình cha con nói riêng trong tình cảnh éo le vì chiến tranh.
Nhân vật bé Thu – một em gái tám tuổi là nhân vật thứ nhất của truyện, có một tình yêu cha thật đằm thắm, mãnh liệt. Cha đi chiến đấu biền biệt xa nhà, đến khi Thu lên tám tuổi, hai cha con mới được gặp nhau. Cô bé tóc cắt ngang vai, hồn nhiên xinh đẹp, mới nhìn ông Sáu đã nhận ra ngay con gái của mình, vậy mà nhìn thấy cha bé Thu đã tròn mắt nhìn, ngơ ngác lạ lùng, tái mặt đi, vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”. Rồi suốt trong ba ngày cha ở nhà Thu đã không nhận ra cha. Tâm lí và thái độ của Thu được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động như: nhất định không chịu gọi ông Sáu là cha; nhất định không nhờ ông Sáu chắt giùm nước nồi cơm đang sôi to; hất cái trứng cá mà ông gắp cho; cuối cùng khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây cột xuồng kêu rổn rảng thật to… Cách cư xử nói năng cộc lốc, vùng vằng, ương ngạnh, ngờ vực; cái thái độ lạnh nhạt, lảng tránh xa cách, thậm chí còn có những hạnh động vô lễ với ông Sáu ấy khiến cho tình cảm cha con tưởng chừng không hình thành được.
Tuy nhiên sự ương ngạnh của bé Thu lúc mới gặp cha là hoàn toàn không đáng trách. Bởi vì trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của đời sống. Mặt khác, người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường nên nó không tin ông Sáu là ba. Chỉ vì trên mặt ông có thêm vết thẹo khác với hình ba mà nó đã khắc sâu vào tâm trí. Phản ứng tâm lí của bé Thu là hoàn toàn tự nhiên. Nó chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc chân thật. Thu chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái cứng đầu của Thu có ẩn chứa cá sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha khác.
Song, đến buổi cuối cùng, trước khi ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Tình phụ tử thiêng liêng đã cháy bùng lên. Khi nhìn thẳng đối diện với người cha “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Đằng sau đôi mắt mênh mông, xôn xao đó là biết bao ý nghĩ, tình cảm đang xáo động trong lòng. Có được sự xôn xao đó trong đôi mắt là kết quả của cả một đêm “lăn lộn, thở dài như người lớn ở nhà ngoại”. Nó lăn lộn, nó thở dài có lẽ vì nó ân hận, quá giận mình, rất thương ba và mong cho trời chóng sáng để có thể chạy về nhà.
Lần đầu tiên, khi không ai ngờ tới, Thu cất tiếng gọi ba. Đó là tiếng kêu như tiếng xé, xé không khí và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng ba Thu đã kìm nén bao năm nay. Tiếng ba như vỡ tung ra từ đáy lòng nó. Và đau đớn thay, đây là tiếng gọi ba đầu tiên cũng là tiếng gọi cuối cùng trong cuộc đời cô bé. Sau tiếng gọi ba là một loạt những hành động “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên, giang hay tay ôm chặt lấy cổ ba nó rồi nó hôn ba nó cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba”. Tất cả những hành động đó đều biểu hiện một tình cảm ruột thịt nồng nàn là nỗi mong nhớ bùng lên thật mãnh liệt, hối hả, cuống quýt có xen lẫn sự hối hận. Và khi nghe ông Sáu nói: “Thôi, ba đi nghe con”, nó đã thét lên “Không!” rồi “hai tay xiết chặt cổ ba nó, giang cả hai chân câu chặt lấy ba, đôi vai nhỏ bé rung rung”, bé Thu khóc. Đó là tiếng khóc của sự xót xa ân hận vì lỗi lầm của mình, vì thương ba đau khổ. Khi hiểu ra mọi lẽ, khi nhận ra cha thì đã quá muộn. Do đó tất cả mọi hành động của Thu đối với cha như muốn đền bù những hụt hẫng đã qua. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy, trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt. Riêng bác Ba – người kể chuyện cảm thấy như có bàn tay cứ nắm lấy trái tim mình. Nhà văn viết không nhiều, chỉ bằng một nét chấm phá đó thôi nhưng đủ cho ta xúc động trước nỗi niềm và tâm trạng của nhân vật.
Tóm lại, tình cảm của bé Thu đối với cha thật sâu sắc, mạnh mẽ, thật dứt khoát rạch ròi. Thu là đứa trẻ có cá tính cứng cỏi đến mức ương ngạnh nhưng hồn nhiên, ngây thơ, đáng yêu. Giờ đây, Thu không chỉ yêu ba, em còn tự hào về ba. Chính niềm yêu thương và tự hào ấy đã trở thành sức mạnh thôi thúc và rèn giũa để sau này Thu trở thành cô giao liên mưu trí, dũng cảm gan dạ. Qua những diễn biến tâm trạng, tình cảm của bé Thu, ta thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ và quan trọng hơn bởi ông có tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ đó.
Vì cuộc chiến đấu chung của dân tộc, ông Sáu đã hy sinh hạnh phúc gia đình, xa vợ, xa con, rồi những thương tích trong chiến tranh. Suốt tám năm ròng, xa gia đình đi chiến đấu, mấy ngày về thăm nhà ít ỏi, ông phải trái qua nỗi đau về tinh thần vì đứa con gái duy nhất mà ông hằng mong nhớ không chịu nhận ông là cha. Hẳn người đọc chúng ta không thể quên được hành động của ông Sáu khi mới về thăm nhà: “Cái tình người cha cứ nôn nao trong con người anh, không thể chờ xuồng cập bến, anh nhảy thót lên bờ, chạy lại bên con, giọng lập bập run run Ba đây con !”. Thế nhưng đáp lại tình cảm ấy của ông là nỗi sợ hãi thảng thốt kêu cứu của con. Ông như chết lặng đi trông thật đáng thương, tội nghiệp. Suốt ba ngày ở nhà, ông không đi đâu, chỉ tìm cách gần gũi, vỗ về con, nhưng càng an ủi vỗ về thì con càng lạnh nhạt, xa cách. Cho đến phút cuối cùng, trước lúc chia tay, ông mới được hưởng niềm hạnh phúc của người cha, đó là nghe con gọi mình là ba và được đón nhận những cử chỉ, hành động yêu thương nồng nhiệt của con gái. Quá bất ngờ, xúc động, hạnh phúc, ông lén con lau vội những giọt nước mắt vừa sung sướng vừa đau đớn, xót xa.
Vì nhiệm vụ đối với đất nước, ông không thể ở lại với con. Trở về khu căn cứ, ông mang nỗi ân hận đã đánh con và lời con dặn trước lúc chia tay vào việc làm một chiếc lược ngà tặng con. Chỉ kiếm được khúc ngà voi, ông đã vô cùng sung sướng, giành hết tâm trí, công sức vào làm chiếc lược: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ, kì công như một người thợ bạc. Trên sống lưng lược có khắc dòng chữ Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc con nhưng như gỡ được phần nào tâm trạng của ông. Nó trở thành vật thiêng, an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hàng đêm, ông nhìn ngắm chiếc lược, mài nó lên tóc cho thêm bóng thêm mượt. Tác giả không miêu tả rõ nhưng người đọc vẫn hình dung được cái kỉ vật nhỏ bé mà thiêng liêng ấy. Đó cũng là biểu tượng trắng trong, quý giá, bất diệt của tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Do đó, trước lúc hi sinh, không đủ sức nói một lời trăng trối, ông vẫn nhớ tới chiếc lược và chuyển giao nó cho người bạn như một cử chỉ chuyển giao sự sống, một ước nguyện gìn giữ muôn đời tình cha con ruột thịt. Điều đó đúng như ông Ba đã nói: “Có lẽ chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Chiếc lược ngà – kỉ vật của người cha – kỉ vật của người đã khuất mãi mười năm sau mới tìm được địa chỉ, mới được trao lại cho đứa con gái bé bỏng để “tình cha con không chết”. Và hơn thế nữa, nó đang sống lại trong sự sống của người bạn, người đồng chí với bé Thu. Như vậy, câu chuyện Chiếc lược ngà không chỉ ca ngợi tình cha con đậm đà sâu nặng bất diệt, ca ngợi tình đồng chí đồng đội mà còn gợi cho người đọc thấm thía những nỗi đau thương mất mát, éo le mà chiến tranh gieo xuống cho bao con người, bao gia đình trên đất nước Việt Nam.
Chiến tranh! Hai tiếng vang lên nghe thật thương tâm, cũng chính vì hai tiếng đó mà bao người phải khổ đau. Chiến tranh tàn khốc, gây ra các cuộc sinh ly tử biệt, vợ xa chồng, cha xa con, con xa nhà. Chiến tranh không thể tha thứ khi đã cướp đi sinh mạng, xương máu của biết bao người con Việt Nam, và cũng chính trong chiến tranh ấy, những tình cảm thiêng liêng nhất của cuộc đời không thể nào bộc lộ ra hết được, tình yêu đôi lứa, tình đồng chí đồng đội, tình yêu quê hương và đặc biệt nhất là tình cảm gia đình.
Chúng ta đã từng cảm động biết bao trước tình bà cháu ấm áp, thấm thía trong Bếp lửa của Bằng Việt (1963). Bài thơ là lời của người cháu ở nơi xa nhớ về người bà tần tảo, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh, cùng những kỉ niệm tuổi thơ êm đềm bên bà – dù bị bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945 bao trùm nhưng bà và bếp lửa vẫn “chờn vờn” mỗi sớm, vẫn “ấp iu nồng đượm” mỗi ngày. Hay Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (Nguyễn Khoa Điềm) dạt dào tình yêu con của người mẹ Tà Ôi… Còn Y Phương, qua bài thơ Nói với con đã đem đến cho ta vẻ đẹp tình cha con thắm thiết trong lời dặn chân thành, mộc mạc mang đậm chất Tày. Bài thơ như là một khúc tâm tình của người cha, thể hiện lòng yêu thương con của người miền núi và mong ước thế hệ con cái phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương.
Trong Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng đã phát hiện ra vẻ đẹp tình cha con thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Tiếng gọi ba đầu tiên cũng là tiếng gọi ba cuối cùng, cái ôm đầu tiên của hai cha con cũng là cái ôm cuối cùng. Thế nhưng dù thời gian có ít ỏi, dù bên nhau không nhiều nhưng sợi dây tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu vẫn mãi vững bền, không bom đạn nào có thể chia cắt.
Trang sách khép lại mà sao hình ảnh hai cha con ông Sáu và những tình cảm của họ vẫn còn để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Điều gì đã làm nên sức sống, sức hấp dẫn của các nhân vật cũng như của truyện ? Trước hết, đó là vì tác giả đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hợp lí, đã tạo được những tình huống éo le, cảm động. Thứ hai là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật tài tình, giọng kể nhẹ nhàng, đằm thắm, cách kể quá khứ xen hiện tại. Ngoài ra, cách chọn ngôi kể cũng là một nghệ thuật đặc sắc của truyện. Kể theo ngôi thứ nhất, bác Ba vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật trong câu chuyện nên càng có tác dụng làm cho câu chuyện như thật và dễ đi vào lòng người.
Đoạn trích truyện ngắn Chiếc lược ngà đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Nguyễn Quang Sáng đã khắc tạc thành công tình nghĩa cao đẹp giữa những con người Việt Nam luôn trường tồn mãi mãi dẫu có trải qua khốc liệt của chiến tranh.
nguồn: Thạc sỹ Nguyễn Huyền Nga
Bài 4: SUY NGHĨ VỀ CHIẾN TRANH QUA TRUYỆN NGẮN “CHIẾC LƯỢC NGÀ” CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG
————————
Tác phẩm kể về người cha (anh Sáu) xa nhà đi chiến đấu từ khi con còn nhỏ. Khi về thăm nhà mang theo nỗi nhớ và tình yêu thương con tha thiết. Nhưng con gái anh (Bé Thu) đã nhất quyết không nhận cha bởi vì anh có vết thẹo trên má. Điều này đã khiến anh vô cùng đau đớn và khổ tâm. Khi con bé nhận ra anh là ba, cũng là lúc anh phải ra đi mang theo nỗi nhớ con ra chiến trường đến tận lúc hy sinh. Tác phẩm như một bài ca, ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng bất diệt trong hoàn cảnh chiến tranh éo le.
Vậy chiến tranh có vai trò gì trong việc bộc lộ tư tưởng của tác phẩm? Xin đưa ra một vài kiến giải về vấn đề này.
Trước hết phải nói tới cội nguồn nỗi nhớ con của anh Sáu. Chiến tranh khiến anh phải xa nhà đi chiến đấu từ khi con còn nhỏ. Chị đã vài lần ra thăm anh nhưng không thể mang theo con vì đường xa vất vả, đi lại khó khăn nguy hiểm vì bom đạn nữa. Chính điều này càng làm cho nỗi nhớ con trong anh cồn cào, để rồi khi về thăm nhà, thăm con, “cái tình cha trong người anh cứ nôn nao”… Vừa nhìn thấy con bé anh đã nhảy thót lên bờ cất tiếng gọi con… Như vậy có thể nói, chiến tranh đã chia cắt cha con, đã dồn nén tình yêu thương và nỗi nhớ con trong anh đến tha thiết. Đó cũng là khởi nguồn cho nỗi khổ tâm khi con không nhận anh. Rõ ràng chiến tranh là nguyên nhân trực tiếp gây nên nỗi bất hạnh đó. Nói đến đây chắc hẳn sẽ có những quan niệm cho rằng, cũng giống như quan niệm của giáo sư Chú, không đi chiến tranh, đi xa cũng vậy thôi. Xin thưa có sự khác biệt: Thử hỏi trong điều kiện mà người mẹ có thể đi thăm được thì tại sao không thể mang theo con? Chỉ có thể là chiến tranh ác liệt, nguy hiểm mà người cha là anh Sáu đã hiểu điều này. Hơn nữa, trong chiến tranh, điều kiện thiếu thốn thì sự cảm nhận yêu thương càng ít, anh chỉ có một tấm hình nhỏ của con… Tất cả điều đó càng như thôi thúc nỗi nhớ con trong anh nhiều hơn. Đó chính là biểu hiện của tình phụ tử thiêng liêng. Nếu thử hình dung ta thay yếu tố chiến tranh bằng yếu tố khác thì tác phẩm sẽ ra sao.?
Đỉnh điểm của sự khổ tâm trong anh Sáu là con bé không nhận anh. Vì sao? Vì vết thẹo. Vết thẹo đó do chiến tranh gây ra. Bà ngoại bé Thu kể cho nó nghe tội ác của bọn giặc tây ở đầu làng. Để nó thấy rằng chính chiến tranh, chính tội ác của chiến tranh đã làm cho ba nó như vây. Vậy rõ ràng rằng chiến tranh có vai trò then chốt tạo nên sự éo le cho tình huống truyện . Câu nói của bà ngoại bé Thu cũng gợi cho ta những suy nghĩ về tội ác của chiến tranh. Đâu phải chỉ mình anh Sáu bị như vậy, đâu phải chỉ có mỗi tình phụ tử này bị chia cắt, mà đã có biết bao nhiêu tội ác như vậy do chiến tranh gây ra. Rõ ràng yếu tố chiến tranh ở đây là không hề thay thế.
Và rồi tình phụ tử thiêng liêng trỗi dậy, cha con nhận ra nhau. Nhưng cũng một lần nữa chiến tranh lại chia cắt. Người đồng đội đi cùng có ý muốn anh ở lại vài ngày, nhưng do chiến tranh, phải nhận nhiệm vụ với tổ quốc mà anh phải dứt áo ra đi. Nghĩa vụ thiêng liêng ấy cũng bắt nguồn từ tình yêu gia đình quê hương (có cả yêu thương con). Thử hỏi có nhiệm vụ nào quan trọng hơn được điều lớn lao ấy. Rõ ràng một lần nữa chiến tranh lại là nguyên nhân chia cắt tình phụ tử thiêng liêng này.
Khi trở lại chiến trường mang theo nỗi nhớ con. Anh giữ lời hứa với con là sẽ làm cho con chiếc lược. A luôn mang theo nó bên minh, thường chải lên đầu cho vơi bớt nỗi nhớ con và mong chờ ngày đoàn tụ. Nhưng rồi chiến tranh lại cướp đi cái mong ước nhỏ nhoi ấy. Anh hy sinh , trong giờ phút cuối cùng, anh dùng chút sức lực còn lại nhờ anh Ba trao lại cho con cây lược. Chiến tranh có thể cướp đi mạng sống của anh chứ không thể cướp đi được tình yêu thương của anh dành cho con. Người đọc nghẹn ngào trước nỗi đau ấy và lên án sự tàn ác của chiến tranh. Chiến tranh gieo giắc trong anh Sáu nỗi nhớ con và giờ đây nó cướp đi cuộc sống của anh cùng tình yêu thương con tha thiết.
Điều đọng lại sâu sắc nhất trong lòng người sau khi đọc xong tác phẩm chính là sự cảm động về tình cha con thiêng liêng, bất diệt. Nhưng người đọc cũng không thể quên được những nỗi đau mà chiến tranh đã gây ra, từ đó trong họ có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc đời và thái độ sống. Đó là ý nghĩa nhân văn mà mỗi tác phẩm mang lại.
Nếu như trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” ta ám ảnh về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, mà xã hội phong kiến không chỉ là chiến tranh thì yếu tố này hẳn không ảnh hưởng quá nhiều trong tác phẩm. Nhưng ở đây, tình phụ tử gắn với hoàn cảnh chiến tranh để rồi người đọc “nặng lòng” qua từng chi tiết. Phải chăng đó là Vai trò của yếu tố này trong tác phẩm…
Bài viết của: Thầy Nguyễn Văn Bắc- THCS Thân Nhân Trung, Việt Yên
Bài 5:
Chiến tranh đã đi qua nhưng những nỗi đau mà nó gây ra thì vẫn còn đó. Nó dập tắt ngọn lửa sum vầy mỗi buổi xế tà của nhiều gia đình, nó cướp đi người cha, người anh, người con của những mái nhà đơn sơ, nó đem bầu trời vốn dĩ bình yên phủ đầy bóng tối của khói bom đạn. Nhưng sau tất cả, chiến tranh vẫn không thể nào ngăn cách yêu thương của tình cảm ruột thịt. Trong “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng đã tái hiện một cách chân thực tình cha con sâu nặng dù bị chia cắt bởi chiến tranh của ông Sáu và bé Thu. Đồng thời, tác phẩm cũng là một lời tố cáo bản chất xấu xa và những nỗi đau mà cuộc chiến tranh phi nghĩa đã gây ra cho con người.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã xây dựng được hai tình huống truyện vô cùng đặc sắc, để rồi chạm đến nơi sâu thẳm nhất của trái tim độc giả. Tình huống đầu tiên đó chính là cuộc gặp gỡ đầy xúc động của hai cha con ông Sáu sau tám năm trời xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu lại không chịu nhận cha. Đến khi Thu chịu nhận cha thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường trở về đơn vị.
Tình huống thứ hai là khi ông Sáu ở khu căn cứ, ông đã dùng tất cả tình yêu thương và nỗi nhớ con để làm nên một chiếc lược ngà tặng bé Thu. Nhưng lược chưa kịp trao tay thì ông đã phải hi sinh nơi chiến trường. Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông đã nhờ một người đồng đội chuyển chiếc lược cho con.
Từ hai tình huống đó, tác giả đã thành công thể hiện tình cha con sâu nặng, thắm thiết của ông Sáu và bé Thu. Đồng thời, việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh éo le đã làm bộc lộ tính cách và tình cảm cha con. Để rồi, tình cha con thiêng liêng, cao cả và sức mạnh của nó đã khiến người đọc không khỏi ngậm ngùi tiếc thương sau khi gấp lại trang sách cuối cùng.
Bé Thu là một cô bé có tình yêu thương ba sâu sắc. Tám năm trời đằng đẵng xa cách khiến cho cô bé luôn ấp ủ ước mơ được gặp lại ba và rồi cái ngày ấy cũng đã đến. Những tưởng Thu sẽ vui mừng khôn xiết, sẽ chạy đến chỗ ba mà ôm, mà hôn, nhưng mọi thứ lại không như ta nghĩ.
Ngày gặp ba và nghe tiếng ông gọi, cô bé chỉ “tròn xoe mắt” như chẳng hiểu chuyện gì rồi vội vã chạy đi tìm mẹ. Trong ba ngày ngắn ngủi ở nhà, mặc cho ông Sáu luôn yêu thương, dỗ dành, bé Thu vẫn nhất quyết không chịu nhận ba.
Ngay cả khi cô bé cần có sự giúp đỡ chắt nước nồi cơm to, cô bé cũng loay hoay, tự xoay xở vì không muốn gọi ông Sáu là ba. Đỉnh điểm của sự bài xích là trong một lần ăn cơm, khi ông Sáu gắp trứng cá cho bé Thu, cô bé đã hất ra khiến cơm văng tung tóe. Cô bé bị ông Sáu trách phạt nhưng chẳng hề khóc lóc mà bỏ về nhà ngoại.
Qua cuộc trò chuyện với bà ngoại, người đọc mới hiểu ra lý do Thu không nhận ông Sáu là ba vì trên mặt ông có một vết thẹo. Khác với bức hình tám năm qua Thu nhìn thấy. Bà ngoại đã giải thích cho Thu về mọi chuyện và cuối cùng Thu cũng đã hiểu ra.
Sáng hôm sau khi Thu trở về nhà cũng là lúc ông Sáu phải chia tay mọi người để trở về đơn vị. Thái độ Thu lúc này đối với ông Sáu đã có sự thay đổi rõ rệt. Không còn vẻ cau có, cố chấp nữa. Thay vào đó là một khuôn mặt “sầm lại buồn rầu” với “đôi mắt mênh mông bỗng xôn xao” khi bắt gặp ánh mắt trìu mến pha lẫn chút buồn rầu của ba. Để rồi, trong khoảnh khắc cuối cùng, cô bé đã cất tiếng gọi ba – một tiếng kêu đến xé lòng, tiếng kêu của tình yêu thương, tiếng kêu của nỗi nhớ da diết, của sự đợi chờ và mong ước mà cô bé đã giấu trong mình suốt tám năm đằng đẵng.
Cô bé ôm chặt lấy ba, hôn ba thật nhiều, hôn lên cả vết thẹo mà cô từng ghét bỏ, quất quýt cho đủ những tháng ngày đã cách xa. Cô bé không muốn ba đi nữa, nhưng rồi cũng phải nhìn bóng ba ngày càng xa. Vào lúc chia tay, cô ước ba sẽ mua cho mình một chiếc lược ngà, để cô bé có cảm giác được ba yêu thương cạnh bên. Có thể thấy, Thu là một cô bé bướng bỉnh, cố chấp, nhưng sự bướng bỉnh, cố chấp ấy lại sinh ra từ lòng yêu thương, quý mến ba.
Cùng với bé Thu, ông Sáu cũng là một nhân vật đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ngày được trở về quê hương sau tám năm dài xa cách, bao nỗi nhớ cùng kỷ niệm ùa về khiến ông Sáu không khỏi xúc động. Nghĩ đến việc được gặp lại đứa con gái bé bỏng, ông lại vui vẻ và vội vã lạ thường.
Nhưng rồi, trước thái độ xa lạ của con, ông hụt hẫng đầy đau khổ. Trong ba ngày ít ỏi được ở nhà, ông không đi đâu xa mà chỉ tìm cách gần gũi với con, chờ con gọi mình là ba, chờ con chấp nhận mình. Đến khi được con nhận cha thì cũng là lúc ông lại phải xa con, xa gia đình, xa quê hương.
Hình ảnh một người cha đang cố “ghìm được xúc động và không muốn cho con nhìn thấy mình khóc, một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con” khiến người đọc phải ngậm ngùi. Những giọt nước mắt của ông không chỉ là giọt nước mắt của sự xúc động, mà nó còn là niềm hạnh phúc lớn lao được tạo nên bởi tình yêu thương con sâu nặng.
Mang theo lời hứa tặng con một chiếc lược ngà trở về chiến khu, ông luôn ân hận vì đã trách phạt con. Vì thế, ông đã dồn tất cả tình yêu thương và nỗi nhớ con vào việc làm chiếc lược ngà, chỉ mong đến ngày được tận tay trao nó cho con mình. Mỗi lần nhớ con, ông lại mang cây lược ra ngắm, rồi chải lên tóc mình cho lược thêm bóng.
Chiếc lược ấy chính là kết tinh của nỗi nhớ, là vật tượng trưng cho tình yêu thương con sâu sắc của người cha. Tình cảm ấy thật lớn lao, đến cả những giây phút cuối của đời mình, ông vẫn canh cánh tiếc nuối vì chưa thể trao nó cho Thu. Ông chỉ có thể nhờ đồng đội hoàn thành tâm niệm cuối cùng. Và khi chiếc lược đến tay của Thu, tình cha con của họ sẽ chẳng bao giờ chết, mà nó đã trở thành một điểm tựa để Thu khôn lớn và trưởng thành.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc không chỉ bởi tình huống đặc sắc, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn mà nó hơn hết đến từ sự ấm áp của tình cha con thiêng liêng, cao quý. Đồng thời, tác giả đã góp phần tái hiện những mất mát to lớn mà chiến tranh đã gây ra cho nhiều gia đình, để rồi ta yêu thêm cuộc sống hôm nay và mãi trân trọng giá trị của hai chữ hòa bình.
Bài 6:
Nguyễn Quang Sáng – nhà văn sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu trên chiến trường miền Nam, với lối viết mộc mạc, bình dị, đậm chất Nam Bộ, những trang viết của ông về cuộc sống, con người nơi đây trong hai cuộc kháng chiến ác liệt của dân tộc và trong những năm tháng sau hòa bình luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” – câu chuyện cảm động về tình cha con, ra đời vào năm 1966 là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.
Trước hết, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã xây dựng được hai tình huống truyện đặc sắc, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Tình huống được kể đến đầu tiên đó chính là cuộc gặp gỡ đầy xúc động của hai cha con ông Sáu sau tám năm trời đằng đẵng xa cách nhưng thật trớ trêu là bé Thu lại không chịu nhận cha. Đến lúc bé Thu nhận ra thì ông Sáu lại phải lên đường về lại đơn vị. Thêm vào đó, truyện còn xây dựng được tình huống độc đáo khác nữa, đó chính là khi ông Sáu ở khu căn cứ đã dồn hết tình yêu thương để làm tặng bé Thu một chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao con thì ông Sáu đã hi sinh. Trong lúc hấp hối, ông đã nhờ đồng đội chuyển cho con chiếc lược mình đã làm. Như vậy, có thể thấy, tác phẩm đã xây dựng được hai tình huống độc đáo và giàu ý nghĩa. Đó đều là những tình huống giàu kịch tính với nhiều yếu tố bất ngờ, từ đó đã thể hiện tình cảm cha con sâu nặng, thắm thiết. Đồng thời, nhân vật được đặt vào trong những tình huống éo le đã làm bộc lộ tính cách và tình cảm cha con, để rồi từ đó tác giả đã khẳng định sự thiêng liêng, cao cả và sức mạnh của tình cảm cha con.
Bên cạnh việc xây dựng tình huống truyện đặc sắc, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” còn xây dựng được những nhân vật độc đáo và trước hết đó chính là nhân vật bé Thu. Bé Thu là một cô bé có tình yêu thương cha sâu sắc, tám năm trời đằng đẵng xa cho, cô bé ấy luôn khao khát được gặp lại cha và rồi cái ngày cô hằng ao ước ấy đã đến. Những tưởng bé Thu sẽ vui mừng khôn xiết, sẽ chạy sà vào lòng ba mà ôm, mà hôn, thế nhưng, mọi thứ lại hoàn toàn ngược lại. Nghe tiếng ba gọi, rồi đến lúc gặp ba, cô bé “tròn xoe mắt” như chẳng thể hiểu chuyện gì đang xảy ra rồi vội chạy đi tìm mẹ. Trong quãng thời gian ít ỏi ba ngày ở nhà, mặc cho ông Sáu dành bao nhiêu yêu thương, quan tâm, dỗ dành cho bé Thu thì bé Thu vẫn nhất quyết không chịu gọi một tiếng ba, những lúc cần nói với ông Sáu, cô bé luôn nói cộc lốc. Và ngay cả những lúc khó khăn nhất như phải chắt nước một nồi cơm to bé Thu vẫn loay hoay, tự xoay xở, tự làm. Đặc biệt, trong bữa cơm, khi ông Sáu gắp trứng cá cho bé Thu, cô bé đã hất ra khiến cơm văng tung tóe. Chính vì điều đó, bé Thu đã bị ông Sáu trách phạt, nhưng con bé không khóc mà bỏ về nhà ngoại. Bé Thu đã không chịu nhận ba chỉ vì trên mặt ông Sáu có vết thẹo, khác với bức hình mà tám năm qua bé Thu nhìn thấy. Để rồi, khi được bà ngoại giải thích mọi chuyện, bé Thu đã hiểu ra tất cả. Sáng hôm sau, bé Thu trở về nhà, đó cũng chính là lúc ông Sáu phải chia tay mọi người để lên đường trở lại đơn vị. Lúc này đây, thái độ của bé Thu với ông Sáu đã thay đổi hoàn toàn, không còn cái vẻ cau có, cố chấp nữa mà giờ đây chỉ còn khuôn mặt “sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao” khi bắt gặp ánh nhìn trìu mến và buồn rầu của ba nó. Để rồi, khi ông Sáu nói lời chia tay với mọi người, bé Thu đã cất tiếng gọi ba – một tiếng kêu đến xé lòng, tiếng kêu của tình yêu thương, của nỗi nhớ, của sự chờ đợi mà cô bé ấy đã cố giấu trong mình suốt tám năm qua. Cô bé ấy ôm chặt lấy ba, hôn ba thật nhiều và hôn lên cả vết thẹo. Cô bé ấy ước sao ba sẽ ở nhà với mình chứ không đi nữa. Và đến lúc chia tay ba, bé Thu ao ước ba sẽ mua cho mình một chiếc lược ngà, để luôn thấy ba và tình yêu của ba cạnh mình. Như vậy, có thể thấy, bé Thu là một người con tuy bướng bỉnh nhưng rất giàu lòng yêu thương, quý mến ba.
Cùng với nhân vật bé Thu, nhân vật ông Sáu cũng là nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Trở về quê hương, gia đình sau tám năm trời đằng đẵng xa cách, ngày trở về, bao nỗi nhớ thương khiến ông Sáu xúc động mãnh liệt. Nỗi niềm xúc động ấy của ông Sáu đã được tác giả thể hiện bằng những hình ảnh, câu văn giàu xúc động “không thể nào chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra… vội vàng với những bước chân dài”. Để rồi, khi trở về nhà, trước thái độ của con, ông đã rơi vào tâm trạng đau khổ “anh đứng sững lại đó, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày ít ỏi ở nhà, ông không đi đâu xa mà luôn gần gũi, tìm đủ mọi cách, kiên nhẫn chờ sự thay đổi của bé Thu, chờ bé Thu gọi ông một tiếng ba. Và đến lúc con nhận mình cũng là lúc ông phải xa con, xa gia đình, quê hương, tình cảm cha con sâu nặng cũng được tác giả bộc lộ thật xúc động “ghìm được xúc động và không muốn cho con nhìn thấy mình khóc, một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con”. Những giọt nước mắt của ông Sáu không chỉ là giọt nước mắt xúc động mà còn là giọt nước mắt của niềm hạnh phúc lớn lao, nó ứa ra từ tình yêu thương con sâu sắc của ông Sáu.
Chia tay con, ông Sáu mang theo lời hứa mua tặng con một chiếc lược ngà trở lại chiến trường. Để rồi, khi trở lại chiến trường, ông luôn ân hận và khổ tâm vì đã trách phạt con. Và hơn thế nữa, ông đã dồn hết tình yêu thương con và nỗi nhớ của mình vào làm chiếc lược ngà tặng con. Ông cưa từng chiếc răng cẩn thận và tỉ mỉ, ông “tẩn mẩn” khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Mỗi lần nhớ con, ông lại mang cây lược ra ngắm và lên mái tóc mình cho cây lược thêm bóng. Ông Sáu đã dồn hết tình cảm mình dành cho con vào việc làm chiếc lược ngà, chiếc lược ấy chính là kết tinh cho nỗi nhớ, cho tình yêu thương sâu sắc mà ông dành cho bé Thu. Tình yêu thương con sâu sắc của ông Sáu còn được thể hiện rõ nét qua chi tiết ông Sáu hi sinh. Trong những phút giây cuối cùng ít ỏi còn lại của cuộc đời mình, ông Sáu đã nhờ đồng đội trao lại chiếc lược ngà cho bé Thu. Và rồi, sau này, chiếc lược ấy đã được trao tận tay cho Thu, điều đó cho thấy, tình cha con không hề chết, không hề mất đi mà nó trở thành điểm tựa để bé Thu khôn lớn và trưởng thành.
Tóm lại, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang sáng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc mọi thế hệ không chỉ bởi tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn mà hơn hết chính bởi sự ấm áp vô ngần của tình cảm cha con cao quý trong hoàn cảnh của cuộc chiến tranh gay go, ác liệt.
Bài 7:
Tình phụ tử là thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao cả. Nếu tình mẫu tử là “nước trong nguồn” êm ái, nhẹ nhàng thì tình cảm cha dành cho con là “núi Thái Sơn”, vĩ đại, mạnh mẽ, bền bỉ và dài lâu. Với sự chiêm nghiệm đó, Nguyễn Quang Sáng đã viết tác phẩm Chiếc lược ngà, một truyện ngắn gây xúc động lòng người về tình cảm của cha con ông Sáu và bé Thu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Vỏn vẹn trong vài ngày ông Sáu về thăm nhà, đoạn trích ngắn từ câu chuyện đã lấy đi bao nước mắt người đọc, thấu cảm về tình cha con, tình yêu thương gia đình máu mủ ruột già không gì có thể so sánh được và đặc biệt là tình cảm bền bỉ bé Thu dành cho người cha của mình.
Được sáng tác vào năm 1966, khi tác giả vừa là nhà văn, vừa là người lính tham gia chiến trường Nam Bộ, tác phẩm lấy bối cảnh tại một vùng quê sông nước. Ông Sáu, người lính dạn dày lão luyện có dịp về thăm nhà trong mấy ngày nghỉ phép. Tạm xa cảnh đạn bom loạn lạc, ông về với vợ và bé Thu – con gái ông. Nhưng thật éo le, cô con gái ông mới chỉ gặp một lần nhất định không chịu nhận cha, thậm chí còn hỗn láo, ruồng bỏ ông. Trong hoàn cảnh như vậy, người đọc không chỉ thấy được tình cảm mãnh liệt hai cha con giữ trọn cho nhau mà còn có những giọt nước mắt thương cảm cho cuộc sống quá đỗi khó khăn, vất vả, li tán của thời kì cách mạng. Tình cảm của bé Thu dành cho cha, tình yêu của ông Sáu dành cho con không được thốt bằng lời, nhưng từng suy nghĩ, từng cử chỉ hành động của hai nhân vật đều cho thấy, tình phụ tử thiêng liêng không thể bị chiến tranh bào mòn mà chính những chia cắt, những khổ đau ấy đã góp phần khẳng định sự mãnh liệt của sợi dây gia đình.
Người đọc rất dễ ấn tượng bởi cô bé Thu vừa tinh nghịch, hiếu động, cứng đầu, vừa yêu thương cha da diết. Sống với má, ba đi chiến đấu xa nhà, cô bé chỉ được nhìn thấy mặt qua tấm ảnh nhỏ hai người chụp chung. Trong kí ức của bé Thu, ba luôn là người đàn ông trong ảnh, là một người lính anh dũng qua lời kể của bà. Tình cảm cô dành cho cha tự nhiên được nuôi nấng dần dần, cô bé mong được gặp ba, mong được nhìn thấy ba ngoài đời thực như bước ra từ tấm ảnh chân dung. Cũng chính vì vậy, khi giáp mặt với ông Sáu, nay có một vết thẹo dài trên mặt do lăn lộn ngoài chiến trường, cô bé Thu vô cùng sợ hãi và bối rối. Không phải một đứa trẻ lao vào lòng ba sau tám năm đằng đẵng cách trở, không phải tiếng gọi thân thương đáng ra phải bật thốt ngay từ khi hai người gặp nhau, bé Thu tỏ rõ thái độ lạnh nhạt “chớp mắt nhìn như muốn hỏi”, sắc mặt “bỗng tái đi” và thậm chí là bỏ chạy và kêu “Má! Má”. Đối với em, ba của em không hề có vết thẹo dài “đỏ ửng, giật giật” lên mỗi khi xúc động, nên khi nhìn thấy ông Sáu tự xưng là ba mình, em nhất định cự tuyệt và chối bỏ. Cái ngây thơ, hồn nhiên nhưng cũng rất bảo thủ khiến người đọc vừa buồn cười, vừa thấy sống mũi cay cay. Cười vì cái tính cách trẻ con mà dứt khoát, đanh thép, nhất định không chịu gọi người lạ mặt là cha, buồn vì đồng cảm với nỗi đau của ông Sáu khi con không chịu nhận mình, buồn vì hoàn cảnh chiến tranh đã chia rẽ tình cha con nồng nàn thắm thiết.
Sau cuộc gặp gỡ không như mong đợi, ông Sáu hiểu được sự thiếu thốn về mặt tình cảm của con nên càng ra sức cố gắng chăm sóc Thu, tìm cách được ở gần con nhiều hơn. Nhưng ông càng cố, bé Thu càng khước từ.
Trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, khi được mẹ giao nhiệm vụ chắt nước nồi cơm, vì nồi cơm to không thể bắc xuống được, ai cũng nghĩ cô bé Thu buộc phải gọi ba để nhờ ông Sáu giúp. Nhưng không, sau cái nhìn “dáo dác” là câu nói trống không: “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!”. Ngay cả khi ông Sáu không giúp đỡ để khiến bé Thu bật ra câu gọi ba, cô bé chấp nhận lấy cái gáo múc từng chút nước, “miệng lẩm bẩm điều gì đó không rõ” chứ không hề hé miệng nhận ông Sáu là ba mình. Được mẹ bảo gọi ba vào ăn cơm, cô bé cũng nói trổng “Vô ăn cơm!”, “Cơm chín rồi!”. Những câu nói không chủ không vị ấy có thể là những lời xấc xược, nhưng sâu thẳm trong đó là niềm tin, là tình yêu của bé Thu dành cho cha. Cô bé tin rằng, ba mình phải là người đàn ông trong ảnh, còn người đang ngồi trong nhà với vết sẹo đáng sợ kia không phải ba, nên dù thế nào, cô cũng nhất định từ chối gọi. Tình cảm mãnh liệt ấy được đẩy lên cao trào qua chi tiết bé Thu hất đổ cả chén cơm khi ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá. Thu “lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hết cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe cả mâm”. Sau cái đánh vào mông và lời quát giận dữ của ông Sáu, bé Thu không khóc la mà chỉ “ngồi im, đầu cúi gằm xuống”, “cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy bước ra khỏi mâm” và đi sang nhà bà ngoại, không quên “làm cho dây lòi tói khua rổn rảng thật to”. Sự đấu tranh tư tưởng của bé gái tám tuổi khiến người đọc có chút rung mình. Một bé gái nhỏ tuổi lại có tính cách mạnh mẽ, gan góc đến như vậy. Nhận được sự quan tâm của người tự xưng là cha, cô bé không hề nao núng, cũng không hề tâm sự, hỏi mẹ rằng tại sao người lạ kia lại ở nhà mình mà nhất định không chịu mở lòng. Trong tâm niệm của cô, cha chỉ có một, và dù có ai đối xử tốt với cô bé thế nào cũng không thể thay thế bóng hình quen thuộc qua tấm ảnh mờ cũ kĩ cô nhìn thấy. Tiếng “ba” cao cả và thiêng liêng ấy em sẽ không thể dễ dàng dành cho ai khác, tình cảm độc nhất của em dành cho ba không gì có thể thay thế được. Hành động của cô bé không hề hỗn hào, đáng ghét mà trái lại, rất nhân văn và đậm tình người. Một cô bé bướng bỉnh nhưng hiểu chuyện, tôn trọng tình cảm và yêu ba da diết như vậy thật đáng được ngợi ca.
Tình cảm của bé Thu đối với cha đã lấy đi không ít nước mắt người đọc ở những chi tiết cuối truyện, khi ông Sáu chuẩn bị lên đường trở lại chiến khu. Sau một đêm ở nhà bà ngoại, được bà giải thích, kể chuyện, cô bé “lăn lộn”, “thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Có lẽ em đang tự trách mình, rằng tại sao lại không hỏi mẹ, hỏi bà về vết sẹo trên mặt ba, rằng tại sao bản thân lại hư đốn, làm ba đau lòng, rằng tại sao không gọi một tiếng “ba” ngay kho ông Sáu trở về. Nỗi ân hận dẫn đến hành động cụ thể, hành động quyết định lớn lao của một cô bé ngây thơ, trong sáng. Về tới nhà, nhìn mọi người đến rất đông, mẹ thì tất bật chuẩn bị gói ghém đồ đạc, cô bé “lúc đứng vào góc nhà”, “lúc đứng tựa cửa”, vẻ mặt “sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ”, nhìn ba “với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Nghe những câu nói cuối cùng của ông Sáu, bé Thu bỗng “kêu thét lên” tiếng “Ba…a…a…ba!” đầy cảm động, như “xé sự im lặng”, tiếng “Ba” cố đè nén trong bao nhiêu năm, tiếng “Ba” như vỡ tung trong lòng. Cô bé ương bướng mới chỉ hôm qua còn ngang ngạnh biết mấy, giờ lại “dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, “nói trong tiếng khóc”, “hôn tóc, hôn cổ”, “hôn vai” và “hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Tình cảm thầm lặng nuôi dưỡng trong suốt tám năm nay đã được bộc lộ, Giữa hai cha con, chẳng còn bom đạn nào, chẳng có khoảng cách nào có thể chia rẽ được nữa. Không muốn rời xa ba, bé Thu dùng cả tay, cả chân “câu chặt lấy ba” cùng câu nói trong tiếng nức nở:” Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”. Một tình cảm trong trẻo và chân thật, một thái độ khác hoàn toàn với bé Thu ương bướng, cô bé yêu cha biết mấy, thương cha biết nhường nào, nhưng giờ đây khi hai cha con được gặp nhau cũng là lúc ông Sáu phải quay trở lại tập kết. Tiếng gọi của trái tim, tình phụ tử có muộn màng nhưng thật sự mãnh liệt và quý báu.
Cả tuổi thơ thiếu thốn tình thương của cha, cô bé chỉ biết nuôi trong mình một khát khao được gặp, được nhìn thấy ba bằng xương bằng thịt. Không nhận ông Sáu là ba cũng chỉ vì ông trông không giống người ba mà em tưởng tượng, đến khi hiểu thấu mọi chuyện, tiếng lòng của em gọi “ba” sao mà đắng cay, thê lương đến thế. Chiến tranh đã chia cắt biết bao gia đình, vợ mất chồng, mẹ mất con, con mất cha, … nỗi đau ấy được khắc họa trọn vẹn qua tình cảm của cô bé. Chẳng dám mong mỏi đến ngày hai ba con được cùng nhau đi chơi trong cảnh hòa bình, bé Thu gọi ba trong nước mắt, trong sự chứng kiến của những người làng xóm thân thiết. Tình cảm vĩ đại ấy có lẽ không thể tàn phai trong lòng độc giả. Từ tiếng gọi, tiếng khóc cho đến ánh mắt mênh mông xao động của bé Thu sẽ mãi đọng lại, như một minh chứng mãnh liệt cho tình cha con bền bỉ và vững vàng giữa những người cùng chung huyết thống.
Khai thác tâm lý nhân vật khéo léo và chuyên sâu cùng sự am hiểu diễn biến cảm xúc nhân vật, tác giả đã thổi hồn vào cô bé Thu những tính cách điển hình của một bé gái, có hiếu động, có ngang bướng, có kiên cường và có cả tình yêu cha chân thành. Đọc Chiếc lược ngà, tình cảm giữa hai cha con có lẽ là thành công lớn nhất mà tác giả truyền tải được, đặc biệt là tình cảm của bé Thu dành cho ông Sáu. Người ta như thấy chính mình trong nhân vật, cũng như thấy chính con mình trong hình tượng bé Thu, gần gũi, sinh động, đáng yêu mà đáng quý.
Truyện ngắn Chiếc lược ngà khép lại, tuy không phải là kết thúc có hậu nhưng lại vô cùng hạnh phúc. Tiếng gọi “ba” trong tâm khảm được cất lên là lời khẳng định đanh thép về tình cảm cha con ruột thịt cháy bỏng. Đồng thời, qua đây, tác giả lên án chiến tranh tàn khốc, cuộc chiến phi nghĩa đã chia cắt biết bao gia đình, gây ra tình huống éo le, đau đớn cho bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu người cha, người mẹ. Nguyễn Quang Sáng không chỉ kể đến tình người, tình cảm giàu đẹp giữa hoàn cảnh khó khăn, gian nan nhất của dân tộc mà còn là đạo lý, đạo làm người, đạo làm con cái đối với cha mẹ một tình thương, sự tôn trọng và biết ơn sâu sắc.